Đặc điểm của Đảng cầm quyền
Bài làm
1. Định nghĩa Đảng
cầm quyền
Khái niệm Đảng
cầm quyền chỉ rõ đặc điểm, vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản trong
giai đoạn cách mạng mà giai cấp công
nhân đã giành được chính quyền, thiết lập hệ thống chính trị mới và tiến hành
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Vị trí đảng cầm quyền là bước trưởng thành vượt bậc,
tạo ra thế và lực mới để Đảng có thể lãnh đạo nhân dân tiến tới những thắng lợi
cách mạng to lớn hơn. Tuy nhiên, lý luận về Đảng cầm quyền là vấn đề còn mới và
khó. Thực tế cho thấy mặc dù CNXH đã tồn tại trên 80 năm nhưng sụp đổ của các
Đảng cộng sản cầm quyền tại những nước XHCN ở Đông Âu và Liên xô đã đặt ra hàng
loạt vấn đề thực tiễn và lý luận về Đảng cộng sản cầm quyền. Để củng cố và giữ vững vị trí, vai trò lãnh
đạo của Đảng cầm quyền, cần phải nghiên cứu để vận dụng sáng tạo đúng đắn học
thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ chí Minh về Đảng cách mạng của giai cấp công
nhân vào điều kiện cụ thể của nước ta.
2. Phân tích 3 đặc
điểm của Đảng cầm quyền
Đảng cộng sản cầm quyền có 3 đặc điểm
chính sau đây:
Một là nhiệm vụ chính trị của Đảng đã thay đổi căn bản. Từ chưa có chính quyền đến có chính quyền là một bước ngoặc
căn bản của cách mạng, là một bước phát triển mới về chất đối với sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân. Trước đây khi chưa có chính quyền, nhiệm vụ hàng đầu
của Đảng là thuyết phục, vận động nhân
dân thấy sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình để lãnh đạo nhân dân
đánh đổ đế quốc và phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Khi có chính
quyền thì nhiệm vụ chủ yếu, trọng tâm của Đảng là tổ chức xây dựng, quản lý,
phát triển đất nước trên mọi lĩnh vực. Chủ nghĩa xã hội từ lĩnh vực lý luận đã
chuyển sang lĩnh vực thực tiễn. Trong tình hình đó, khó khăn là ở chỗ phải hiểu
rõ những đặc điểm của bước chuyển từ nhiệm vụ chủ yếu là thuyết phục nhân dân
và dùng vũ lực quân sự trấn áp, bóc lột sang nhiệm vụ chủ yếu là tổ chức, quản
lý kinh tế - xã hội.
Tổ chức quản lý kinh tế - xã hội là một
việc hết sức khó khăn đòi hỏi tính khoa học và nghệ thuật cao. Hơn nữa đây cũng
là một công việc hết sức mới mẻ và phức
tạp, không thể không trải qua một thời kỳ khó khăn mò mẫm, thử nghiệm và vấp
váp. Lênin nói: “sự xuất hiện của một
giai cấp mới trên vũ đài lịnh sử, với tư cách là người lãnh tụ và người lãnh
đạo xã hội không bao giờ diễn ra mà lại không có một thời kỳ ‘tròng trành’ hết
sức dữ dội, một thời kỳ chấn động, đấu tranh và bão táp, đó là một mặt; Mặt
khác không bao giờ diễn ra mà lại không có một thời kỳ mò mẫn thử nghiệm, do
dự, ngả nghiêng trong việc lựa chọn những phương pháp mới đáp ứng tình hình thế
giới khách quan mới”. (Lênin toàn
tập, NXB sự thật, Tập 36, Trang 259). Tình hình đó đòi hỏi trong suốt quá
trình lãnh đạo, bên cạnh việc học tập kinh nghiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
các nước XHCN đi trước, Đảng cầm quyền phải luôn tổng kết thực tiễn, đúc kết
phát triển thành lý luận, để dựa vào đó xây dựng đường lối, chính sách lãnh đạo
phù hợp, giải đáp đúng những vấn đề do thực tiễn đặt ra với tinh thần độc lập,
tự chủ, sáng tạo, giảm đến mức thấp nhất những sai lầm, vấp váp.
Hai là Đảng lãnh đạo trong điều kiện có nhà nước XHCN. Giành được chính quyền, Đảng cộng sản phải thiết lập nhà
nước XHCN nhằm lãnh đạo giai cấp công nhân và nhân dân lao động tiếp tục thực
hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình. Đây là bước ngoặt lớn đưa vị trí, vai
trò lãnh đạo của Đảng lên tầm cao mới về thế và lực.
Đảng cầm quyền lãnh đạo xã hội, lãnh đạo nhân dân chủ yếu thông qua nhà
nước và bằng nhà nước. Vì vậy khái niệm đảng cầm quyền có nội hàm chủ yếu là
đảng xây dựng và lãnh đạo chính quyền, phát huy vai trò chính quyền để quản lý
đất nước, quản lý kinh tế - xã hội theo Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời với
việc lãnh đạo chính quyền, đảng cầm quyền phải xây dựng, lãnh đạo các tổ chức
khác trong hệ thống chính trị, phát huy vai trò Mặt trận và các đoàn thể chính
trị - xã hội, phối hợp hoạt động của toàn bộ hệ thống chính trị hướng vào những
mục tiêu chung.
Trong hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội nhà nước giữ vị trí trung
tâm và có vai trò cực kỳ quan trọng. Nhà nước chính là tổ chức tập trung nhất
để thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, Nhà nước XHCN còn mang đặc điểm
là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Hiệu lực quản lý của nhà nước có liên quan
rất lớn đến vai trò, năng lực lãnh đạo của Đảng.
Tuy nhiên, cần phải nhận thức rõ rằng Đảng cầm quyền hoàn toàn không
phải là "đảng trị". Đảng không phải là cơ quan quyền lực nhà nước, bộ
máy cai trị dân. Đảng không đứng trên Nhà nước, không đứng trên pháp luật mà
Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện qua việc đề ra
đường lối chiến lược, chính sách lớn đối với tất cả lĩnh vực của đời sống kinh
tế xã hội nhằm hướng đến mục tiêu chung là giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng
thành công CNXH. Sự lãnh đạo của Đảng còn xác lập dựa trên việc xây dựng một bộ
máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, thật sự của dân, do dân và vì dân. Đảng đề
ra nguyên tắc, tư tưởng chỉ đạo, xây dựng và tổ chức hoạt động của nhà nước.
Đảng kiểm tra nhà nước và hệ thống chí trị thông qua việc kiểm tra Đảng viên,
những người đang giữ những nhiệm vụ chủ chốt tronng bộ máy chính quyền và thông
qua quần chúng nhân dân. Đảng đề ra quan điểm toàn diện cho công tác cán bộ :
đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ và quyết định các chính sách lớn về
cán bộ.
Có chính quyền là thuận lợi cơ bản
nhưng mặt khác, khi có chính quyền thì trong đảng cũng tiềm ẩn nguy cơ chủ
quan, tự mãn, quan liêu, đặc quyền đặc lợi, xa rời nhân dân mà Đảng cần tỉnh
táo ngăn chặn, phòng ngừa. Có chính quyền thì cán bộ Đảng viên được bố trí vào
những cương vị, chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước nhằm để thực hiện vai
trò lãnh đạo của Đảng. Nhưng khi có chức, có quyền thì một bộ phận cán bộ Đảng
viên dễ lợi dụng chức quyền để làm việc sai trái như quan liêu, cửa quyền, hách
dịch… làm cho nhân dân oán ghét, uy tín của Đảng giảm sút. Hiện tượng này không
gắn với bản chất của Đảng, của nhà nước, nhưng nếu không có biện pháp ngăn
chặn, nếu kỷ luật của Đảng, pháp luật của nhà nước không nghiêm, không kịp thời
khắc phục thì sẽ gây ra hậu quả khó lường.
Ba là phương pháp lãnh đạo của Đảng đã thay đổi. Khi Đảng cộng sản cầm quyền, cách mạng chuyển sang một giai
đoạn mới với tình hình, vai trò, nhiệm vụ mới, điều này đòi hỏi Đảng phải thay đổi phương pháp lãnh đạo. Khi chưa
có chính quyền, Đảng trực tiếp giải quyết mọi việc. Có chính quyền, có hệ thống
chính trị, Đảng phải sử dụng rộng rãi cả hệ thống chính trị để thực hiện nhiệm
vụ trung tâm của Đảng là lãnh đạo công cuộc xây dựng, trước hết là trên lĩnh
vực kinh tế. Mặt khác, có chính quyền rồi, với tồn tại đan xen của nhiều thành
phần kinh tế, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn tiếp tục nhưng để lãnh đạo các thành
phần giai cấp khác cùng hướng về một mục tiêu chung, Đảng cộng sản phải lãnh
đạo bằng những hình thức, phương pháp và biện pháp khác. Lênin chỉ ra rằng: “khi tình hình đã thay đổi và chúng ta phải
giải quyết những nhiệm vụ thuộc loại khác, thì không nên nhìn lại đằng sau và
sử dụng những phương pháp của ngày hôm qua” (VI Lênin toàn tập, NXB Tiến Bộ, Matxcơva, 1978, Tập 44, Trang 398)
Có chính quyền, Đảng cộng sản phải biết
loại bỏ những phương pháp, hình thức không còn phù hợp. Có những phương pháp,
hình thức trước đây có tính chất phổ biến đến nay không còn phổ biến nữa như
phương pháp tuyên truyền vận động cá biệt đến từng nhà, từng người nay vẫn còn,
nhưng phải sử dụng rộng rãi bằng phương
tiện thông tin đại chúng, sử dụng cả hệ thống chính trị của chủ nghĩa xã hội để
tuyên truyền giáo dục, vận động quần chúng hành động cách mạng có hiệu quả trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội mà trước hết là trên lĩnh vực kinh tế. Lênin
đã cảnh báo những người cộng sản rằng: Ai
muốn dùng phương pháp cũ trong cuộc đấu tranh giành chính quyền để giải quyết
những nhiệm vụ tổ chức thì người đó sẽ phá sản hoàn toàn với tính cánh là nhà
chính trị, là người XHCN.
Vì vậy cần phải sáng tạo những phương
pháp, hình thức mới ngày càng phong phú. Đó là những phương pháp, hình thức kết
hợp giáo dục chính trị, tư tưởng với kích thích lợi ích kinh tế, kết hợp hài
hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội, kết hợp giáo dục với
hành chính và cưỡng bức, kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng, công tác tổ chức
và công tác kinh tế. Đảng cầm quyền đặc biệt chú trọng đến phương pháp lãnh đạo
thông qua nhà nước, phát huy vai trò, hiệu lực của nhà nước trong lĩnh vực thể
chế hoá đướng lối chính sách của Đảng bằng các hình thức, biện pháp quản lí của
nhà nước.
3. Đặc điểm lãnh
đạo của Đảng cộng sản Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Đảng ta là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước, đã thể hiện tính tất yếu về kinh tế và tính
tất yếu về chính trị ngay từ khi ra đời. Nhìn chung, trong hơn 70 năm qua,
cương lĩnh, đường lối, chính sách của Đảng về cơ bản phản ánh được ý chí,
nguyện vọng và những lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và
của cả dân tộc, đả không ngừng đưa cách mạng Việt Nam đi theo những phương
hướng gắn liền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đó của cách mạng
Việt Nam đã gắn bó Đảng ta với nhân dân bằng cả chiều dài và cả chiều sâu lịch
sử, không có lực lượng chính trị nào thay thế được. Nhân dân ta tự giác thừa
nhận sự lãnh đạo của Đảng rõ ràng không phải là do sự áp đặt, mà xét đến cùng
là do tính tất yếu khách quan của cách mạng nước ta.
Đảng ta trở thành đảng cầm quyền từ sau Cách
mạng Tháng Tám năm 1945. Nhưng đến 1975 với thắng lợi trọn vẹn của cuộc kháng
chiến chống Mỹ và nhất là từ khi thực hiện công cuộc đổi mới thì vấn đề xây
dựng Đảng cầm quyền đặt ra những yêu cầu bức xúc mới.
Đảng cộng sản cầm quyền ở nước ta ngoài
những đặc điểm của một Đảng cộng sản cầm quyền, còn có những đặc điểm
riêng. Trước nhất, đó là Đảng duy nhất
cầm quyền. Đảng có hệ thống chính trị-xã hội, đặc biệt là nhà nước được xây
dựng từ trung ương đến cơ sở, giúp Đảng thực hịên vai trò lãnh đạo của mình. Có
đội ngũ cán bộ Đảng viên đông đảo, nắm chức vụ chủ chốt trong bộ máy nhà nước.
Các tổ chức chính trị-xã hội và lực lượng nòng cốt giúp Đảng giữ lấy chính
quyền, tuyên truyền trong quần chúng nhân dân. Đảng là người chịu trách nhiệm về
các mặt đời sống chính trị xã hội của quần chúng nhân dân, sự phát triển của
đất nước. Hai là Đảng có bề dày tri thức và kinh nghiệm trong lãnh đạo kháng
chiến, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Song do trong lãnh đạo xây dựng và quản lí
đất nước còn nhiều mới mẻ. Lực lượng của Đảng có bản lĩnh chính trị vững vàng
(qua đấu tranh) nhưng có nhiều người không được đào tạo căn bản, do đào tạo
nhiều nguồn khác nhau nên có nhiều ý kiến khác nhau, chưa thống nhất cao dẫn
đến nảy sinh bệnh bảo thủ giáo điều… Ba là Đảng lãnh đạo xây dựng đất nước đi
lên chủ nghĩa xã hội với nhiều khó khăn phức tạp. Bốn là Đảng lãnh đạo nhà nước
pháp quyền đang xây dựng và hoàn thiện, hệ thống pháp luật còn chồng chéo, lỏng
lẻo, biện pháp giáo dục, thực hiện pháp luật chưa đến nơi đến chốn.
So với các Đảng cộng sản khác như Đảng cộng sản LX và đông âu thì Đảng
ta có những đặc điểm riêng như: ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã là một tổ chức
cộng sản đoàn kết thống nhất, Đảng có mối quan hệ máu thịt với giai cấp công
nhân và nhân dân lao động (xuất thân của Đảng). Nhân dân bao bọc, bảo vệ Đảng,
tin Đảng, theo Đảng; cuộc cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng là tự
mình vì mình. Thể hiện tính độc lập, tự chủ cao về đường lối . mặc dù có lúc
phải chịu sự chi phối của các Đảng cộng sản nước lớn khác; lãnh tụ của Đảng là
lãnh tụ của dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới-Hồ Chí Minh.
Từ thực tiễn cách mạng nước ta nhiều
năm qua Đảng xác định rõ: Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng
Đảng là nhiệm vụ then chốt. Cương lĩnh chính trị của Đảng chỉ rõ Đảng phải
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, coi đó là một quy luật tồn tại và phát
triển của Đảng. Đảng cầm quyền cần phòng ngừa nguy cơ thoái hoá biến chất.
Trong sự nghiệp đổi mới, từ Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ Đại hội VII, Đảng
đã chỉ rõ thêm về 4 nguy cơ của Đảng cầm quyền: Tụt hậu về kinh tế, chệch hướng
XHCN, tệ quan liêu và tham nhũng, âm mưu "diễn biến hoà bình" của các
thế lực thù địch.
4. Ý nghĩa thực
tiễn :
|
Thực tế 75 năm lãnh đạo cách mạng Việt
Nam cũng đã chứng tỏ rằng chỉ có sự lãnh đạo duy nhất của Đảng cộng sản Việt
Nam mới có thể đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi. Văn kiện Đại hội VIII
đã nêu rõ : “phải khẳng định sự lãnh đạo
của đảng vì ở nước ta, không có sự lãnh đạo của Đảng thì không thể có độc lập
dân tộc, không có nhà nước của dân, do dân, vì dân. “ Nếu lúc bình thường
vai trò lãnh đạo của đảng là quan trọng thì ở những bước chuyển cách mạng vai
trò đó lại càng quan trọng hơn. Những thắng lợi và thành tựu, những thất bại và
tổn thất của đất nước đều gắn liền với sự tồn vong của Đảng
Tuy nhiên, làm sao để Đảng có được năng
lực cầm quyền, lãnh đạo hoàn thành sứ mệnh lịch sử xây dựng thành công CNXH và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc? Làm sao để nhân dân, xã hội tự nguyện thừa nhận vai
trò lãnh đạo của Đảng, đoàn kết chặt chẽ xung quanh Đảng? Làm thế nào để Đảng
luôn xứng đáng là đội tiên phong cách mạng của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và dân tộc, mãi mãi không thoái hoá biến chất?
Trước hết, phải nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng. Trách nhiệm của Đảng cầm quyền là vạch ra được đường lối chính trị đúng đắn đưa cách
mạng nước ta tiếp tục tiến lên mạnh mẽ, vững chắc. Từ Đại hội VI đến nay, Đảng
đã đề ra đường lối đổi mới đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã
hội, từng bước phát triển đi lên. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề mới đang đặt ra
đòi hỏi phải được nghiên cứu làm sáng tỏ hơn nữa về mô hình và con đường đi lên
CNXH ở nước ta, về phát triển nền kinh tế thị trường bảo đảm đúng định hướng
XHCN, về kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội, chấp nhận
phân hoá giàu nghèo ở mức độ hợp lý mà không phân cực quá lớn, phân hoá giai
cấp dẫn đến chia rẽ, xung đột xã hội v.v… Tất cả những điều đó đòi hỏi Đảng cầm
quyền phải vững vàng về chính trị, tiêu biểu về trí tuệ, nắm vững và biết vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu được những
tinh hoa tri thức tiên tiến của thời đại, đi sâu nghiên cứu tổng kết thực tiễn
Việt Nam, vạch ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng và ngày càng được hoàn
thiện. Điều quan trọng hàng đầu là không để xảy ra sai lầm về đường lối dẫn đến
nguy cơ tụt hậu và chệch hướng, kinh tế - xã hội không phát triển, đời sống
nhân dân không được cải thiện, nhân dân không ủng hộ Đảng thì vai trò của Đảng
cầm quyền không thể giữ vững.
Hai là để nâng cao vai
trò lãnh đạo của Đảng cần phải phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng với
nhiệm vụ tổ chức quản lý của nhà nước. Thời gian qua, phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với hệ thống chính trị trước hết là với Nhà nước tuy đã có một bước
đổi mới nhưng đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu sáng tỏ hơn nữa. Vừa phải nâng
cao chất lượng lãnh đạo của Đảng cầm quyền, vừa phát huy vai trò của Nhà nước
pháp quyền. Khắc phục tình trạng tổ chức đảng bao biện, ôm đồm, “lấn sân” hiện
còn khá phổ biến, cũng như tình trạng buông lỏng lãnh đạo của Đảng. Không thể
chia cắt máy móc chức năng Đảng lãnh đạo với chức năng Nhà nước quản lý, nhưng
lại không thể lẫn lộn, trùng lắp về nhiệm vụ và trách nhiệm.
Ba là phải có cơ chế tổ
chức, giáo dục, quản lý tốt Đảng viên, nhất là đối với những đảng viên có chức,
có quyền. Đảng phải chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo,
quản lý tuyệt đối trung thành với Tổ quốc và CNXH, có giác ngộ chính trị, có
năng lực quản lý nhà nước, quản lý các lĩnh vực đời sống xã hội, luôn gắn bó
với nhân dân, có đạo đức và lối sống lành mạnh. Cần làm rõ thêm về tiêu chuẩn đảng viên trong công cuộc đổi
mới; làm rõ nhận thức về vấn đề lao động và bóc lột trong tình hình mới. Với
nền kinh tế nhiều thành phần, cơ cấu xã hội - giai cấp đã có những biến đổi đa
dạng khác trước, việc phát triển đảng làm sao vừa giữ vững bản chất giai cấp
công nhân của Đảng vừa bảo đảm thu hút được các phần tử ưu tú thuộc các thành
phần xã hội.
|
Bốn là phải thường xuyên
củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt
giữa Đảng với quần chúng nhân dân, bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dân.
Xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đó là mục tiêu của cách mạng
và cũng trong quá trình đó mà Đảng được củng cố vững mạnh. Đảng có trách nhiệm
lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, với bộ máy
trong sạch, đội ngũ cán bộ, công chức am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ,
tận tuỵ thực thi nhiệm vụ. Phải khắc phục cho được tình trạng bộ máy quan liêu,
nặng nề, cồng kềnh, trách nhiệm không rõ ràng, thủ tục phiền hà, đội ngũ cán
bộ, công chức nhiều người năng lực yếu, đạo đức kém, sách nhiễu, tham nhũng.
Đảng chăm lo lãnh đạo xây dựng Mặt trận và các đoàn thể nhân dân đại diện cho ý
chí nguyện vọng của nhân dân, là cầu nối nhân dân với Đảng và Nhà nước. Sự vững
mạnh của Đảng cầm quyền gắn bó chặt chẽ với sự vững mạnh của toàn hệ thống
chính trị mà Đảng là hạt nhân lãnh đạo.
Phải tổ chức và có cơ chế chính sách để nhân
dân được tích cực tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản lý Nhà nước, được giám
sát hoạt động và tư cách của cán bộ, đảng viên và các nhân viên công vụ. Bầu cử
các cơ quan quyền lực nhà nước một cách thật sự dân chủ, tạo điều kiện để cử tri
thực hiện đầy đủ quyền ứng cử, đề cử, bầu cử của mình. Nâng cao chất lượng dân
chủ đại diện, đồng thời thực hiện tích cực từng bước dân chủ trực tiếp. Những
việc này mới được bắt đầu và cần làm mạnh mẽ hơn, hiệu quả hơn.
Năm là phải thực hiện
thật tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, đảo bảo sự đoàn kết thống nhất trong
toàn đảng
Tóm lại, sự thắng lợi của công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước những năm qua cho thấy sự
trưởng thành của Đảng cộng sản Việt Nam khi đã trở thành Đảng cầm quyền. Tuy
nhiên để giữ vững vai trò lãnh đạo ấy, Đảng còn phải tiếp tục tự đổi mới hoàn
thiện để xứng đáng với sự mong mỏi, niền tin của nhân dân và nhiệm vụ được trao
cho.